Viêm gan virus là gì? Các công bố khoa học về Viêm gan virus

Viêm gan virus là một bệnh lý trong đó gan bị viêm do tác động của virus. Viêm gan virus có thể là kết quả của các loại virus khác nhau, bao gồm virus viêm gan ...

Viêm gan virus là một bệnh lý trong đó gan bị viêm do tác động của virus. Viêm gan virus có thể là kết quả của các loại virus khác nhau, bao gồm virus viêm gan A, B, C, D và E. Các loại viêm gan virus này có thể lan truyền qua đường tiếp xúc với máu của người nhiễm, qua ảnh hưởng của tình dục, qua mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ hoặc qua các loại thực phẩm và nước uống bị nhiễm vi khuẩn. Viêm gan virus có thể gây ra các triệu chứng từ nhẹ đến nặng, bao gồm mệt mỏi, giảm cân, đau buồn xương và cơ, vàng da và mắt, buồn nôn, nôn mửa và sự mất cân bằng hormone. Nếu không được điều trị, viêm gan virus có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho gan, bao gồm xơ gan, viêm gan mãn tính và ung thư gan.
Viêm gan virus là một bệnh lý do gan bị nhiễm và viêm do tác động của virus. Có nhiều loại viêm gan virus, trong đó các loại phổ biến nhất là viêm gan virus A, B, C, D và E.

1. Viêm gan virus A (HAV): HAV lây lan qua đường tiếp xúc với chất thải hoặc nước uống bị nhiễm virus. Bệnh thường gây nhiễm trùng cấp tính và không gây biến chứng nghiêm trọng. Triệu chứng bao gồm mệt mỏi, mất khẩu, buồn nôn, đau bụng và sự bất lực. Đa phần trường hợp tự phục hồi.

2. Viêm gan virus B (HBV): HBV lây qua tiếp xúc với máu, chất nhầy dịch cơ bản, dùng chung đồ dùng cá nhân nhiễm HBV, hoạt động tình dục không an toàn và từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ. Triệu chứng ban đầu tương tự như cảm lạnh, sau đó có thể tiến triển thành viêm gan mãn tính, xơ gan, viêm gan cấp tính hoặc ung thư gan.

3. Viêm gan virus C (HCV): HCV lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc với máu của người nhiễm virus. HCV thường không gây triệu chứng ban đầu, nhưng có thể tiến triển dần thành viêm gan mãn tính, xơ gan và ung thư gan. Nếu không được điều trị, HCV có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng.

4. Viêm gan virus D (HDV): HDV chỉ gây nhiễm trùng khi có mặt cùng lúc với HBV. HDV lan truyền từ người này sang người khác qua tiếp xúc với máu hoặc chất nhầy dịch cơ bản và có thể gây viêm gan cấp tính và viêm gan mãn tính nặng.

5. Viêm gan virus E (HEV): HEV thường lây qua tiếp xúc với thực phẩm và nước uống bị nhiễm virus. Triệu chứng gần giống viêm gan virus A và thường tự phục hồi.

Các loại viêm gan virus này có thể được phòng ngừa bằng cách tiêm chủng các loại vắc xin phù hợp, và điều trị tùy thuộc vào loại virus và tình trạng gan của bệnh nhân. Điều quan trọng là duy trì vệ sinh cá nhân, tránh tiếp xúc với máu của người khác, sử dụng bảo vệ khi quan hệ tình dục và không tiếp xúc với các sản phẩm tiêm chích cũ hay chia sẻ đồ dùng cá nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm gan virus":

Phân tích hệ phả thực vật của các chuỗi virus viêm gan E toàn cầu: sự đa dạng di truyền, các kiểu phân loại và bệnh truyền nhiễm động vật sang người Dịch bởi AI
Reviews in Medical Virology - Tập 16 Số 1 - Trang 5-36 - 2006
Tóm tắt

Các chuỗi nucleotide từ tổng cộng 421 mẫu virus viêm gan E (HEV) đã được thu thập từ Genbank và phân tích. Về mặt hệ phả thực vật, HEV được phân loại thành bốn kiểu gen chính. Kiểu gen 1 được bảo tồn nhiều hơn và được phân thành năm kiểu phụ. Số lượng chuỗi kiểu gen 2 bị giới hạn nhưng có thể phân loại thành hai kiểu phụ. Các kiểu gen 3 và 4 cực kỳ đa dạng và có thể được chia thành mười và bảy kiểu phụ. Về địa lý, kiểu gen 1 được phân lập từ các quốc gia nhiệt đới và một số quốc gia cận nhiệt đới ở châu Á và châu Phi, trong khi kiểu gen 2 có nguồn gốc từ Mexico, Nigeria và Chad; kiểu gen 3 được xác định hầu như trên toàn cầu, bao gồm châu Á, châu Âu, châu Đại Dương, Bắc và Nam Mỹ. Ngược lại, kiểu gen 4 chỉ được tìm thấy ở châu Á. Có giả thuyết rằng kiểu gen 3 có nguồn gốc từ bán cầu Tây và đã được nhập khẩu vào một số quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, trong khi kiểu gen 4 có thể là bản địa và có khả năng được giới hạn ở châu Á. Các kiểu gen 3 và 4 không chỉ được xác định ở lợn mà còn ở các động vật hoang dã như lợn rừng và hươu. Hơn nữa, trong hầu hết các khu vực nơi các kiểu gen 3 và 4 được phân loại, các chuỗi từ cả người và động vật đều được bảo tồn cao, cho thấy chúng có nguồn gốc từ cùng một nguồn lây nhiễm. Dựa trên sự khác biệt nucleotide từ năm hệ phả thực vật, đề xuất rằng năm kiểu phụ, hai kiểu phụ, mười kiểu phụ và bảy kiểu phụ cho các kiểu gen HEV 1, 2, 3 và 4 được đặt tên là các kiểu phụ theo thứ tự chữ cái. Do đó, tổng cộng đã có 24 kiểu phụ (1a, 1b, 1c, 1d, 1e, 2a, 2b, 3a, 3b, 3c, 3d, 3e, 3f, 3g, 3h, 3i, 3j, 4a, 4b, 4c, 4d, 4e, 4f và 4g) được ghi nhận.

Protein X của virus viêm gan B làm thay đổi đặc tính gắn kết DNA của CREB và ATF-2 thông qua tương tác protein-protein Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 252 Số 5007 - Trang 842-844 - 1991

Sản phẩm của gen X của virus viêm gan B (HBV) có khả năng kích hoạt các gen virus và gen tế bào. Protein X (pX) không liên kết độc lập với các axit nucleic. Dữ liệu được trình bày ở đây cho thấy rằng pX đã tham gia vào một phức hợp protein-protein với các yếu tố phiên mã tế bào CREB và ATF-2 và làm thay đổi tính đặc hiệu trong việc gắn kết DNA của chúng. Mặc dù CREB và ATF-2 đơn độc không gắn kết với yếu tố tăng cường của HBV, nhưng phức hợp pX-CREB hoặc pX-ATF-2 lại gắn kết với yếu tố tăng cường của HBV. Do đó, khả năng của pX tương tác với các yếu tố tế bào đã mở rộng tính đặc hiệu gắn kết DNA của các protein điều hòa này và cung cấp một cơ chế để pX tham gia vào việc điều chỉnh phiên mã. Chiến lược thay đổi tính đặc hiệu gắn kết này có thể điều chỉnh danh mục các gen có thể được các yếu tố phiên mã điều khiển trong quá trình nhiễm virus.

#virus viêm gan B #protein X #gắn kết DNA #yếu tố phiên mã #CREB #ATF-2 #tương tác protein-protein
Gen X của virus viêm gan chồn đất rất quan trọng trong việc thiết lập nhiễm virus ở chồn đất Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 67 Số 3 - Trang 1218-1226 - 1993

Tất cả các loại virus viêm gan động vật có vú đều có một gen, được gọi là X, mã hóa một protein có khả năng hoạt hóa biểu hiện gen của virus. Gen X chồng lấp các gen polymerase và precore cũng như hai khung đọc mở (ORF) mới được xác định, được gọi là ORF5 và ORF6. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kiểm tra xem liệu ORF5, ORF6 và gen X có quan trọng cho việc nhân bản của virus viêm gan chồn đất (WHV) trong các con chồn đất nhạy cảm không. Đầu tiên, chúng tôi đã kiểm tra xem liệu các protein có được sản xuất từ ORF5 và ORF6 qua dịch mã in vitro của các bản sao virus phù hợp hay không, tìm kiếm kháng thể chống lại các protein giả định trong huyết thanh của các động vật bị nhiễm virus dạng hoang dã, và tìm kiếm một bản sao chuyển mã WHV antisense, cần thiết cho việc biểu hiện một protein từ ORF6, trong gan của các chồn đất bị nhiễm cấp tính hoặc mãn tính. Tất cả các thí nghiệm đó đều cho kết quả âm tính. Tiếp theo, chúng tôi sử dụng đột biến theo hướng oligonucleotide để giới thiệu các mã kết thúc vào ORF5 và ORF6 ở hai vị trí trong mỗi ORF. Các chồn đất trưởng thành được chia thành các nhóm ba con, được chuyển gen với một trong bốn bộ gen đột biến. Tất cả các chồn đất này phát triển nhiễm WHV không thể phân biệt được với các động vật được chuyển gen với WHV dạng hoang dã. Khuếch đại phản ứng chuỗi polymerase và giải trình tự DNA trực tiếp xác nhận rằng sự tái trở lại của các đột biến thành kiểu gen dạng hoang dã đã không xảy ra. Tổng hợp lại, những dữ liệu này chỉ ra rằng ORF5 và ORF6 không cần thiết cho sự nhân bản của virus và không có khả năng đại diện cho các gen xác thực. Cuối cùng, chúng tôi đã tạo ra năm đột biến gen WHV X mà hoặc là loại bỏ codon khởi đầu cho tổng hợp protein hoặc làm cắt bớt đầu carboxyl của protein theo 3, 16, 31, hoặc 52 axit amin. Các nhóm ba chồn đất trưởng thành được chuyển gen với một trong năm đột biến gen X. Chỉ các đột biến mang gen X thiếu 3 axit amin từ đầu carboxyl có khả năng nhân bản trong khung thời gian 6 tháng của thí nghiệm. Ngược lại, tất cả bảy chồn đất được chuyển gen WHV dạng hoang dã phát triển chỉ số phù hợp với nhiễm virus. Do đó, rất có khả năng (P < 0,01) rằng gen X của WHV là quan trọng cho sự nhân bản virus trong vật chủ tự nhiên.

#gen X #virus viêm gan chồn đất #ORF5 #ORF6 #dịch mã in vitro #đột biến oligonucleotide #nhân bản virus #vật chủ tự nhiên #truy hồi gen
Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan C cao ở tỉnh lớn nhất của Pakistan Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 9 Số 2 - Trang 95-103 - 2008

MỤC TIÊU:  Để ước tính tỷ lệ và phổ biến nhiễm virus viêm gan C (HCV) trong dân số chung của Pakistan.

PHƯƠNG PHÁP:  Tổng cộng 6817 mẫu máu đã được thu thập ngẫu nhiên từ những người có vẻ ngoài khỏe mạnh ở Punjab, Pakistan từ tháng 3 năm 1999 đến tháng 4 năm 2001 và từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007. Thông tin chi tiết về kinh tế - xã hội của mỗi người tham gia đã được ghi lại. Tất cả các mẫu đều được xét nghiệm để phát hiện kháng thể anti-HCV và tất cả các mẫu seropositive đều được kiểm tra thêm để xác định RNA HCV bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR).

KẾT QUẢ:  Trong tổng số 6817 mẫu huyết thanh được thử nghiệm, có 998 mẫu (14.63%) dương tính với kháng thể anti-HCV. RNA HCV PCA đã được phát hiện trong 494 mẫu (49.50%) dương tính với anti-HCV. Tỷ lệ kháng thể anti-HCV đáng kể cao hơn ở nam giới (15.09%) so với nữ giới (12.3%) (P < 0.009). Sự khác biệt đáng kể cũng được ghi nhận trong tỷ lệ nhiễm HCV giữa các nhóm tuổi khác nhau (P < 0.01). Trong phân tích hồi quy logistic đa biến, việc sử dụng ma túy tiêm (OR điều chỉnh 6.6 [95% CI 4.1–9.9]), truyền máu (OR điều chỉnh 5.9 [95% CI 2.9–12.3]), bị kim chích (OR điều chỉnh 2.2 [95% CI 1.6–3.1]), tái sử dụng ống tiêm (OR điều chỉnh 1.7 [95% CI 0.8–3.6]) và trên 35 tuổi (OR điều chỉnh 1.3 [95% CI 0.9–1.9]) là những yếu tố nguy cơ độc lập đối với việc nhiễm HCV.

KẾT LUẬN:  Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ seroprevalence cao của kháng thể anti-HCV trong dân số chung và có vẻ khỏe mạnh ở tỉnh Punjab của Pakistan. Tiêm chích ma túy, truyền máu và bị kim chích là những yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ nhất với việc nhiễm HCV.

Tỷ lệ hiện diện virus viêm gan B (HBV) (anti‐HBc, HBsAg và anti‐HBs) và nhiễm virus viêm gan D (HDV) ở 9006 phụ nữ sinh đẻ. Dịch bởi AI
Wiley - Tập 16 Số 2 - Trang 110-116 - 1996

Tóm tắt: Mẫu huyết thanh từ 9006 phụ nữ sinh đẻ tại Thụy Sĩ trong các năm 1990 và 1991 được thu thập trên khắp cả nước. Trong số phụ nữ này, 62,7% là người Thụy Sĩ và 37,3% có nguồn gốc từ các quốc gia khác. Các mẫu được sàng lọc ban đầu cho anti-HBc và nếu dương tính, thì được xét nghiệm thêm cho HBsAg, anti-HBs và anti-HDV. Anti-HBc được phát hiện ở 640 trong số 9006 phụ nữ (tỷ lệ chung là 7,1%; người Thụy Sĩ là 3,3%; người nước ngoài là 13,5%). Trong số 640 mẫu có anti-HBc dương tính, 61 mẫu (9,5%) dương tính với HBsAg (không có anti-HBs), 467 mẫu (73,0%) dương tính với anti-HBs (không có HBsAg) và 8 mẫu (1,3%) dương tính với cả HBsAg và anti-HBs. Còn lại 104 mẫu có anti-HBc dương tính mà không có HBsAg hoặc anti-HBs. 104 mẫu này, với phản ứng được gọi là “anti-HBc đơn độc”, chiếm 1,2% của toàn bộ dân số hoặc 16,3% của những người mẹ có anti-HBc dương tính. Tất cả đều âm tính với HBV DNA (PCR). Kháng thể anti-HDV chỉ được tìm thấy ở 5 phụ nữ. HBsAg được thấy trong 38 mẫu máu dây rốn từ những người mẹ có anti-HBc dương. Trong mẫu lớn này, chúng tôi đã quan sát thấy tỷ lệ lưu hành huyết thanh của nhiễm HBV khá cao. Các trường hợp chỉ phản ứng anti-HBc đơn độc, khi âm tính với HBV DNA qua PCR, có lẽ không truyền nhiễm tại thời điểm thu thập máu.

#Tỷ lệ hiện diện huyết thanh #virus viêm gan B #virus viêm gan D #anti‐HBc #HBsAg #anti‐HBs #nhiễm trùng không truyền nhiễm #PCR #Thụy Sĩ #phụ nữ sinh đẻ #mẫu máu.
Sự điều tiết tín hiệu của Thụ thể nhận dạng mẫu bởi HBX trong nhiễm virus viêm gan B Dịch bởi AI
Frontiers in Immunology - Tập 13

Virus viêm gan B (HBV) là một loại virus DNA nhỏ, đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nhiều bệnh lý về gan, bao gồm viêm gan, xơ gan và ung thư gan. Trong số các phân tử được virus này mã hóa, protein X của HBV (HBX) là một chất xúc tác virus, đóng một vai trò thiết yếu trong việc tái bản HBV và các bệnh liên quan đến virus. Các bằng chứng tích lũy cho đến nay cho thấy các thụ thể nhận dạng mẫu (PRRs) nằm ở tuyến đầu của các phản ứng phòng vệ của chủ thể nhằm hạn chế virus bằng cách kích hoạt sự biểu hiện của interferon và các yếu tố viêm khác nhau. Tuy nhiên, tùy thuộc vào HBX, virus có thể kiểm soát tín hiệu của PRR bằng cách điều chỉnh sự biểu hiện và hoạt động của các phân tử thiết yếu liên quan đến các con đường tín hiệu của thụ thể giống như toll (TLR), gen I cảm ứng axit retinoic (RIG-I), và thụ thể giống như NOD (NLR), không chỉ để tạo điều kiện cho việc tái bản HBV mà còn thúc đẩy sự phát triển của các bệnh do virus. Trong bài đánh giá này, chúng tôi cung cấp cái nhìn tổng quát về các cơ chế liên quan đến việc điều tiết tín hiệu PRR do HBX điều khiển để ức chế miễn dịch bẩm sinh, điều chỉnh sự sinh sôi của virus, viêm do virus gây ra và sự hình thành ung thư gan. Với tầm quan trọng của PRRs trong việc kiểm soát sự tái bản của HBV, chúng tôi đề xuất rằng việc hiểu biết toàn diện về sự điều chế các yếu tố tế bào liên quan đến tín hiệu PRR do protein virus gây ra có thể mở ra những hướng đi mới cho việc điều trị nhiễm HBV.

Ảnh hưởng của nhiễm virus viêm gan C và nồng độ virus cao trong huyết thanh đối với các biến chứng đường mật trong ghép gan Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 15 Số 3 - Trang 306-313 - 2013
Tóm tắtĐặt vấn đề

Các biến chứng đường mật (BCs) và nhiễm virus viêm gan C tái phát (HCV) là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh tật và mất chức năng ghép sau khi ghép gan. Ảnh hưởng của HCV đối với BCs chưa được làm rõ một cách chắc chắn.

Đối tượng và phương pháp

Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu để phân tích các yếu tố nguy cơ và kết quả của các BCs sau ghép gan orthotopic (OLT) ở 352 bệnh nhân ghép gan trong suốt 12 năm tại Munich, Đức (n = 84 có HCV; người cho sống và ghép OLT lại không được xem xét). Các BCs được chẩn đoán bằng các kỹ thuật hình ảnh và biểu hiện enzyme gan bất thường, cần can thiệp, đã được xem xét.

Kết quả

Trong phân tích đa biến, phân loại huyết thanh HCV và nồng độ HCV RNA huyết thanh cao trước và sau phẫu thuật là các yếu tố nguy cơ độc lập gây các chít hẹp nối. Dương tính với HCV và các BCs một mình không làm thay đổi sự mất chức năng ghép. Tuy nhiên, bệnh nhân dương tính với HCVBCs thì có kết quả ghép xấu hơn một cách rõ rệt (P = 0.02). Các chít hẹp không phải nối, rò rỉ mật, và số lượng can thiệp cần thiết để điều trị rò rỉ mật đã dẫn đến kết quả ghép xấu hơn ở tất cả các bệnh nhân.

#biến chứng đường mật; viêm gan C; ghép gan; yếu tố nguy cơ; kết quả ghép
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG VI RÚT TRỰC TIẾP TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN C MẠN
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 7-11 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm và hiệu quả điều trị thuốc kháng vi rút trực tiếp bệnh nhân viêm gan C mạn. Phương pháp: Mô tả 67 bệnh nhân nhiễm viêm gan siêu vi C mạn khám và điều trị tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện đa khoa Nghệ An từ 01/2018 - 09/2020. Thiết kế nghiên cứu: Can thiệp không đối chứng kết hợp tiến cứu và hồi cứu. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân có enzyme ALT, AST, GGT trong giới hạn bình thường: 26,9%, 26,9% và 28,3%. Kiểu genotype 1 chiếm ưu thế với 61,2%, kế đến là genotype 6 chiếm tỷ lệ 23,9%, genotype 2: 13,4% và một trường hợp mang genotype 3 (1,5%). Tất cả bệnh nhân đều có HCV RNA dưới ngưỡng phát hiện sau 4 tuần điều trị, đạt tỷ lệ RVR 100%. Tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng siêu vi bền vững sau ngưng điều trị 12 tuần: 98,5%. Đáp ứng siêu vi không khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị. Kết luận: Tỉ lệ RVR: 100%. Tỷ lệ SVR: 98,5%. Đáp ứng siêu vi bền vững trong nghiên cứu không có sự khác biệt giữa các genotype và phác đồ điều trị.
#DAA #viêm gan C #RVR #viêm gan vi rút C mạn
Nghiên cứu biểu hiện của ISG20 ở bệnh nhân ung thư biểu mô gan có liên quan đến HBV
Mục tiêu: Interferon stimulated gene 20 (ISG20) là một trong những ISG có tác dụng ức chế quá trình nhân lên của một số virus như Hepatitis B virus (HBV) và có mối liên quan đến một số bệnh lý ác tính trong đó có ung thư biểu mô tế bào gan (UTBG). Đối tượng và phương pháp: 41 bệnh nhân chẩn đoán UTBG được khai thác lâm sàng, cận lâm sàng và được điều trị bằng phẫu thuật sau đó lấy tổ chức khối u và tổ chức mô cạnh u RNA toàn phần được tách từ các mẫu mô sau đó chuyển thành cDNA và đánh giá mức độ biểu hiện ISG20 mRNA bằng phương pháp qRT-PCR. So sánh mức độ biểu hiện của ISG20 ở khối u và tổ chức mô cạnh u và đánh giá mối liên quan với một số chỉ số cận lâm sàng ở nhóm nghiên cứu. Kết quả: Biểu hiện ISG20 mRNA không khác nhau ở giữa trung tâm khối u so với tổ chức mô lành cạnh u (p=0,22), biểu hiện ISG20 mRNA khối u có mối tương quan chặt chẽ với chỉ số bilirubin toàn phần và không có mối liên quan đến nồng độ AFP với p>0,05. Kết luận: Không có sự khác biệt giữa biểu hiện ISG20 ở mô khối u và mô cạnh khối u. Biểu hiện ISG20 có liên quan đến một số biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân UTBG.
#Ung thư biểu mô tế bào gan #ISG20 #viêm gan virus B
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tải lượng virus viêm gan B ở phụ nữ mang thai có HBsAg (+) tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 4 - Trang 71-76 - 2018
Nghiên cứu trên 38 thai phụ mang thai 3 tháng cuối có HBsAg (+), quản lý thai nghén và sinh con tại Khoa Sản, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ 4/2017-10/2017 nhận thấy: Tỷ lệ thai phụ có nồng độ Log10 HBV DNA5 copies/ml là 47,4%, tỷ lệ thai phụ HBeAg(+)/HBsAg(+) là 47,4%. 88, 9% trường hợp HBeAg (+) có log10 HBV DNA >5, 90% trường hợp HBeAg (-) có log10 HBV DNA
#Virus viêm gan B #phụ nữ mang thai #HBV DNA
Tổng số: 103   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10